Phật, Bồ-tát cái danh từ này là tiếng Ấn Độ, đại sư dịch kinh cổ đại vẫn giữ nguyên âm gốc của tiếng Phạn, dùng âm dịch. Điều này ở trong quy tắc dịch kinh thuộc vào loại “tôn trọng không dịch”. Không phải không dịch được, mà là tôn trọng đối với cách xưng hô này nên dùng âm gốc của nó. Ý nghĩa tương đồng với thánh nhân, hiền nhân mà người Trung Quốc gọi.
Phật là thánh nhân, Bồ-tát là hiền nhân. Vì sao gọi là thánh? Ở trong từ điển Trung Quốc giải thích, đối với lý sự, nhân quả của vũ trụ nhân sinh thông đạt tường tận thì người này được gọi là thánh nhân. Người học tập theo thánh nhân, làm học trò của thánh nhân, một lòng một dạ muốn học thánh nhân thì người này được gọi là hiền nhân.
Ở trong Phật pháp, ở trong kinh điển giải thích, “Phật” phiên dịch là bậc trí, bậc giác. Trí là trí tuệ. Trí tuệ đạt đến cứu cánh viên mãn, đối với tất cả pháp thế xuất thế gian không có gì không giác ngộ (giác ngộ tức là không mê hoặc), thảy đều giác ngộ, thảy đều sáng tỏ thì người này chúng ta tôn xưng họ là Phật Đà. Học Phật Đà, làm đệ tử của Phật Đà, một lòng một dạ tu học, cầu trí tuệ, cầu giác ngộ, người như vậy được tôn xưng là Bồ-tát.